Hỏi:
Nam Mô A Di Đà Phật .
Bạch Thầy , khi con niệm danh hiệu Đức A Di Đà cùng với xâu
chuổi Thầy ban cho con thì xuất hiện những động tác sau :
Bàn Tay phải con lần chuổi, cứ mỗi một niệm thì ngón tay vẽ
các đường mantra lên một hột, xong dứt thì lần qua hột tiếp theo, xong đồng thời
bàn tay trái kiết ấn và các ấn này luôn lần lượt thay đổi .
Con chuyển động ở tư
thế quỳ. Nó chuyển động tuần tự theo 4 hướng, kết hợp cùng lúc với tay
trái kiết ấn, tay phải lần chuổi, miệng niệm Hồng Danh Đức
A Di Đà ). Đầu tiên hai tay chỉ xuống đất trước
và thân chuyển động theo 4 hướng. Xong đến vòng thứ hai thì hai tay để
ngang người và thân cũng chuyển động như
vậy , ....cứ chuyển động như thế đến
vòng sau cùng là hai tay dâng
lên trên đỉnh đầu , cuối cùng đảnh lễ là
mới kết thúc ...
Thưa Thầy tất cả chuyển động này đều
trong trang nghiêm , tịnh
, tỉnh giác ,..song .con không hề có ý định là muốn học điều gì. Vì vậy
con muốn hỏi Thầy là những động tác mà con hành công như vậy có đúng
không ạ ? Tại
sao các chuyển động lại lễ như vậy ?
Kính mong Thầy chỉ dạy
, con DT thành tâm cảm tạ công đức này .
Con DT kính thư .
>>>>>>
Đáp:
Chữ Sổ là đếm. Tay lần hột chuỗi gọi là Sổ Châu Thủ. Châu là
Ngọc Châu, Ngọc Trai: Vật gì tròn trịa cũng gọi là Châu, như Niệm Châu là hạt
tràng hạt. Sổ Châu, tiếng Phạn là PASAKAMALA, dịch âm là Bát Tắc Mạc. Sổ Châu,
lại gọi là Niệm Châu, Tụng Châu, Chú Châu, Phật Châu, tức dùng chỉ xâu 1 số hạt
châu ( hột tròn ) nhất định để tiện cho việc lần đếm lúc xưng danh niệm Phật hoặc
trì tụng Đà-Ra-Ni.
Ở trong Kinh điển Phật Giáo mà có ra cái khởi nguyên quan hệ
đến Niệm Châu hầu hết đều căn cứ vào sự khai thị của Đức Phật đối với Vua Ba
Lưu Ly đã được ghi chép lại trong Kinh Mộc Hoạn Tử.
Căn cứ Kinh Kim Cang Đảnh Du Già Niệm Châu chép:
” Các hạt chuỗi là biểu thị cho Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, còn Mẫu
Châu là biểu thị cho Đức Phật Vô Lượng Thọ, hoặc là biểu thị cho Phật quả của sự
tu hành đã hoàn thành viên mãn, cho nên lúc lần đến hột Mẫu Châu ( Hột lớn trên
đầu chuỗi ), thì không được vượt qua, phải lật xoay ngược trở lại mà lần.
Căn cứ Kinh Nhiếp Chơn Thật chép:
+Phật Bộ: dùng ngón cái với ngón trỏ của tay phải mà lần chuỗi.
+Kim Cang Bộ: dùng ngón cái với ngón giữa của tay phải mà lần
chuỗi.
+Bảo Bộ: dùng ngón cái với ngón vô danh ( áp út ) của tay phải
mà lần chuỗi.
+Liên Hoa Bộ: dùng ngón cái với ngón út của tay phải mà lần
chuỗi.
+Yết Ma Bộ: dùng ngón cái hợp với cả 4 ngón còn lại của tay
phải mà lần chuỗi.
Một tay bên phải của Đức Thiên Thủ Quán Âm nắm xâu Chuỗi ( Niệm
Châu ), gọi là Sổ Châu Thủ vậy.
Còn cách con đang hành trì là mật pháp “sổ niệm châu”của của
bản môn. Là công phu cao cấp phải dùng hoá thân để lần chuỗi. Nghĩa là nương
theo gia trì lực của Như Lai hoặc chư Bồ Tát mà lần chuỗi. Theo đấy tam mật phải
tương ưng. Thân mật biểu thị qua khế ấn ở tay trái (mudra). Khẩu mật biểu thị
qua việc trì hồng danh A Di Đà nhất tâm bất loạn. Ý mật biểu thị qua các chuyển
động đặc thù của cơ thể và tay kiết ấn trước ngực (mantra). Còn tay phải là “Sổ
châu thủ” thì cầm xâu chuỗi bằng lực gia trì và động tác lần chuỗi là do chư Phật,
chư Bồ Tát điều hành chứ không đơn thuần chỉ là họat động của thể xác.
Tuy là nhận gia trì lực để hành công. Nhưng hành giả không được
lạc vào vô thức bản năng, mà phải luôn nhận biết tỉnh giác, biểu thị qua việc
tay phải lần chuỗi điều hoà trang nghiêm thanh tịnh đúng phương pháp chứ không
loạn động hoặc chỉ lần chuỗi bằng cơ bắp của thân vật lý.
Động tác tâm linh của mật tông là động tác thiêng liêng biểu
thị qua một hành động bình thường. Cho nên hành giả phải tránh lạc vào 2 cực của
nhị nguyên là: thể dục thông thường qua cơ bắp của xác phàm phu hoặc động tác của
gia trì lực nhưng rối loạn hoặc khác thường.
Khi hành công, hành giả trước tiên phải
Đắc Khí hoặc nhận gia
trì lực của chư Phật. Miệng trì hồng danh A Di Đà (Dalani). Tay trái
kiết ấn(Mudra)
và nương theo điển quang gia trì biến hóa khế ấn (Mahamudra). Tay phải
cầm xâu chuỗi và lần hạt bằng gia trì lực. Tuy nhiên động tác phải điều
hoà trang nghiêm không rối loạn. Tay trái kiết ấn
nương gia trì lực của đức đạo sư A Di Đà để vẽ linh phù (Mantra). Miệng
niệm hồng danh A Di Đà hoặc trì thầm, tay trái kiết ấn và nương gia trì
lực vẽ linh phù (Mantra). Tay phải các ngón tay vừa vẽ linh phù trên hạt
châu gọi là vê tròn quả phúc vừa lần chuỗi, động tác của cơ thể hoặc
chân di chuyển phải tương thích với các sự chuyển động thiêng liêng
trên. Gọi là tam mật tương ưng. Muốn vậy hành giả không làm bằng thể dục
thông thường, không làm bằng động tác múa thiêng của gia trì lực mà là
thiêng liêng biểu thị qua động tác lần chuỗi như thể dục thông thường.
Khi nhập thiền
hành công, động tác của hoá thân sẽ tác động ở tam giới: Thượng giới
động tác
phía trên đỉnh đầu, Trung giới động tác ở phần trước ngực và chung
quanh. Địa
giới động tác hướng xuống đất.
Người muốn thực hành bí pháp này phải trường trai và giữ các
giới cấm thủ của nhà Phật. Lần đầu tiên phải học trực tiếp với bổn sư mình để
biết cách thiết lập Mandala, nhận gia trì lực của Như Lai và hoá thân hiển thị
hành công. Tránh tham pháp tự ý làm bằng điển quang mà không có sự truyền pháp
của bổn sư hoặc hành công mà hàng ngày vẫn liên tục phạm giới thì lợi bất cập hại.
Qua đại nhân duyên, con đã được ta đích thân truyền thụ “sổ
niệm châu” của bản môn, nên hoá thân hành công như vậy là chính xác. Thường hành
công đúng phương pháp thì cơ thể sẽ khoẻ mạnh, thân tâm thường an lạc, nghiệp
chướng tiêu trừ, gia đình hạnh phúc, tu học và hành thiện độ sanh chóng thành
chánh quả.
Thủ trì nhất bá bát
Diệt tội đẳng hà sa
Viễn ly tam đồ khổ
Xích sắc biến liên hoa.
Nam mô Định Tâm Vương Bồ-tát Ma Ha Tát.
Nguồn: http://duongsinh.net/w/tamlykhicong/lan-chuoi-niem-hong-danh-a-di-a-bang-phuong-phap-ai-thu-an-mahamudra.aspx
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét